Thứ Hai, 18 tháng 2, 2019

Bài 1 Lý thuyết Dow áp dụng phân tích cổ phiếu

Trong phân tích kỹ thuật chứng khoán thì lý thuyết Dow là cơ sở trước tiên cho mọi nghiên cứu vớt kĩ thuật trên thị trường. Nó là cơ sở để xây dựng cũng như đối tượng nghiên cứu vớt của lý thuyết chính là những biến động của bạn dạng thân thị trường (thể hiện trong chỉ số trung bình của thị trường) và không hề dựa trên cùng cơ sở của Phân tích căn bản là các thống kê hoạt động sợ hãi doanh của doanh nghiệp.

Video bài giảng phân tích kỹ thuật thuật về lý thuyết Dow của thầy Trương Gia Bình

LỊCH SỬ hình thành VÀ phát triển LÝ THUYẾT DOW TRONG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN

Trong những ghi chép của người trước tiên đề ra lý thuyết này, Charles. H. Dow, có rất nhiều điều chứng tỏ rằng tác giả không hề nghĩ lý thuyết của mình sẽ biến thành một dụng cụ dùng cho dự báo thị trường chứng khoán hay thậm chí nó đã trở thành một hướng dẫn chung cho các nhà đầu tư. Những ghi chép ấy chỉ nói lên rằng, ông muốn lý thuyết của mình sẽ biến thành một thước đo bất định tầm thường của thị trường. Dow xây dựng công ty “Dịch vụ thông tin tài chính Dow-Jones” và được mọi người biết đến với việc tìm ra chỉ số bình quân thị trường chứng khoán. Những phương pháp căn bản của học thuyết (ngày nay được đặt theo tên ông) đã được ông phác thảo ra trong một bài nghiên cứu mà ông viết cho “Tạp Chí Phố Wall”. Sau khi Dow mất, năm 1902, người kế tục ông làm biên tập cho tờ nhật báo, William. P. Hamilton, đã tiếp tục việc nghiên cứu vớt lý thuyết này. Sau 27 năm nghiến cứu và viết các bài báo, ông đã tổ chức và cấu trúc lại thành Lý thuyết Dow như ngày nay.

khám phá về lý thuyết của Dow, đầu tiên ta phải nghiên cứu đến chỉ số trung bình của thị trường. Nhìn phổ biến giá chứng khoán của tất cả các công ty đều cùng lên và xuống. Tuy nhiên, một số cổ phiếu lại chuyển động theo hướng ngược lại xu thế thông thường của các cổ phiếu khác, cho dù là chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần. Thực tế cho thấy khi thị trường lên lạnh lẽo thì lạnh lẽo của một số chứng khoán tăng mạnh hơn những chứng khoán khác, còn khi thị trường xuống rét thì một số chứng khoán giảm giá buốt hối hả Bên cạnh đó có một số dị thường tăng lên, nhưng thực tế vẫn chứng minh rằng hầu như tất cả các chứng khoán đều dao động theo cùng một xu thế tầm thường.

Cùng với những nỗ lực nghiên cứu giúp của mình, Charles Dow là người đã đưa ra luận điểm về “chỉ số lạnh bình quân” nhằm phản ánh xu thế tầm thường của một số cổ phiếu đại diện cho thị trường. Hai loại chỉ số bình quân Dow-Jones được sinh ra vào năm 1897 và vẫn còn cho đến cho đến ngày nay được Dow tìm ra và áp dụng trong các nghiên cứu vãn của ông về xu thế phổ biến của thị trường. Một trong hai loại chỉ số ấy là chỉ số của 20 công ty hỏa xa, loại còn lại gọi là chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones thuộc các ngành khác bao gồm 12 công ty mạnh nhất vào thời kỳ đó. Con số này tăng lên 20 công ty vào năm 1916 và đến 1928 là 30 công ty.

12 cách thức quan trọng TRONG LÝ THUYẾT DOW ĐỂ PHÂN TÍCH KỸ THUẬT CHỨNG KHOÁN

Khi nghiên cứu lý thuyết Dow có 12 phương pháp cần thiết cần chú ý sau:

1. Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả (trừ hành động của Chúa)

Bởi vì nó phản ánh những hoạt động có câu kết với nhau của hàng nghìn nhà đầu tư, gồm cả những người có kinh hoảng nghiệm dự đoán thị trường giỏi nhất, có những thông tin tốt nhất về xu hướng và các sự khiếu nại, những gì có thể nhận thấy trước và tất cả những gì có thể ảnh hưởng đến cung và cầu của các loại chứng khoán. Thậm chí cả những thiên tai hay thảm họa không dự tính được thì ngay khi xảy ra, chúng đã được thị trường phản ánh ngay vào rét của các loại chứng khoán.

2. Ba xu thế của thị trường

Thuật ngữ thị trường nhằm chỉ lạnh chứng khoán nói tầm thường, dao động của thị trường phân thành các xu thế rét, trong đó quan trọng nhất là các xu thế cấp 1 (xu thế chính hay xu thế cơ bản). Đây là những biến động tăng hoặc giảm với quy mô lớn, kém cỏi kéo dài trong một hoặc nhiều năm và gây ra sự tăng hay giảm đến 20% rét của các cổ phiếu. Chuyển động theo xu thế cấp 1 sẽ bị ngắt quãng bởi các bởi sự xen vào của các dao động cấp 2 theo hướng đối nghịch - gọi là những phản ứng hay điều chỉnh của thị trường. Những bất định này hình thành khi xu hướng cấp 1 tạm thời vượt quá mức độ hiện tại của bạn dạng thân nó (gọi tầm thường các bất định này là các cô động trung gian - biến động cấp 2). Những biến động cấp 2 bao gồm những biến động rét mướt nhỏ tuổi hay gọi là những bất định hàng ngày và không có ý nghĩa cần thiết trong Lý thuyết Dow.

3. Xu thế cấp 1

Như đã nói đến ở phần trước, xu thế cấp 1 là những chuyển động lớn của giá buốt, bao hàm cả thị trường, xoàng xĩnh kéo dài hơn 1 năm và có thể là trong vài năm. Nếu như mỗi đợt tăng rét mướt liên tiếp đều đạt đến mức cao hơn mức trước đó và mỗi điều chỉnh cấp 2 đều dừng lại ở mức đáy cao hơn mức đáy của lần điều chỉnh trước thì xu thế cấp 1 lúc này là tăng rét mướt - thị trường lúc này là thị trường con bò tót - thị trường tăng rét mướt (Bull Market) Còn ngược lại nếu mỗi bất định giảm đều khiến cho lạnh xuống những mức thấp hơn còn mỗi điều chỉnh đều không đủ mạnh để làm cho giá tăng lên đến mức đỉnh của những đợt tăng giá trước đó thì xu thế cấp 1 của thị trường lúc này là giảm giá buốt, thị trường được gọi là thị trường con gấu - thị trường giảm lạnh (Bear Market).

chung, về lý thuyết thì xu thế cấp 1 chỉ là một trong 3 loại xu thế mà một nhà đầu tư dài hạn quan tâm. Mục đích của nhà đầu tư đó là mua chứng khoán càng sớm càng tốt trong một thị trường lên lạnh lẽo, sớm đến mức anh ta có thể chắc chắn rằng mới có duy nhất mình anh ta khai mạc mua và sau đó bắt giữ đến khi và chỉ khi Bull Market đã thực sự hoàn thành và mở màn Bear Market. Nhà đầu tư hiểu rằng họ có thể bỏ lỡ một cách an toàn tất cả những sự xen vào của các điều chỉnh cấp 2 và các dao động nhỏ tuổi vì họ đầu tư dài hạn theo xu thế chính của thị trường. Tuy nhiên với một kinh doanh chứng khoán ngắn hạn thì những biến động của xu thế cấp 2 lại có vai trò quan trọng bởi họ kiếm lợi nhuận dựa trên những bất định ngắn hạn của thị trường của lý thuyết dow

4. Xu thế cấp 2

Xu thế cấp 2 là những điều chỉnh có tác động làm cách biệt quá trình vận động của giá buốt theo xu thế cấp 1. Chúng là những đợt suy giảm tạm thời (trung gian) hay còn gọi là những điều chỉnh hiện ra ở các Bull Market; hoặc những đợt tăng rét hay còn gọi là bình phục hiện ra ở các Bear Market. Thường thì những bất định trung gian này kéo dài từ 3 tuần đến nhiều tháng. Chúng sẽ kéo ngược lại khoảng 1/3 đến 2/3 mức tăng (hay giảm tùy loại thị trường) của giá theo xu thế cấp 1. Do đó, chẳng hạn trong Bull Market, nếu chỉ số giá bình quân công nghiệp tăng liên tục ổn định hoặc có cách quãng rất nhỏ tuổi và mức tăng đạt đến 30 điểm, khi đó sinh ra xu thế điều chỉnh cấp 2, thì người ta có thể trông đợi xu thế điều chỉnh này có thể làm giảm từ 10 đến 20 điểm cho đến khi thị trường lặp lại xu thế upgrade 1 ban sơ của nó.

Dẫu sao cũng cần xem xét là qui tắc giảm 1/3 đến 2/3 không phải là một nguyên tắc không thể phá vỡ mà nó đơn giản chỉ là một nhận xét về trình độ có thể xảy ra mà hầu hết các cô động cấp 2 đều bị giới hạn trong mức này. Rất nhiều trong số đó chấm dứt tác động ở điểm gần với mức 50% mà rất hiếm khi đạt đến mức 1/3. Như vậy có 2 tiêu chí để nhận định một xu thế cấp 2: Tất cả những chuyển động của rét ngược hướng với xu thế cấp 1 kéo dài ít nhất 3 tuần và kéo hoàn lại ít nhất 1/3 mức bất định thức của xu thế cấp 1 (tính từ điểm hoàn thành cô động cấp 2 trước đó đến bất định cấp 2 này, bỏ dở những dao động nhỏ) thì được coi là thuộc loại trung gian hay còn gọi là biến động cấp 2. Mặc dù đã có những tiêu chí để xác định một xu thế cấp 2 nhưng vẫn có những gian truân trong việc xác định thời điểm sinh ra và thời gian sống sót của xu thế.

5. Xu thế bé dại (Minor)

Đây là những dao động trong thời gian ngắn (dài tối đa 3 tuần, hường chỉ dưới 6 ngày) mà theo như thuyết Dow đã nói đến, phiên bản thân chúng không thực sự có ý nghĩa nhưng chúng góp phần tạo nên các xu thế trung gian. Bình thường thì một cô động trung gian dù là một xu thế cấp 2 hay là một phần của xu thế cấp 1 xen giữa hai xu thế cấp 2 liên tục, đều được phân thành từ một dãy gồm 3 hoặc nhiều hơn những dao động nhỏ dại không giống nhau. Xu thế nhỏ là dạng duy nhất trong 3 loại xu thế có thể bị “lôi kéo” (bị tác động). Để tác động vào xu thế cấp 1 và 2 thì cần những giao dịch với khối lượng rất lớn và điều này hầu như là không thể.

Để làm rõ rệt khái niệm về 3 xu thế của thị trường, ta có thể so sánh với cô động của sóng biển với một số điểm giống nhau như sau:

Xu thế cấp 1 trong lạnh lẽo chứng khoán giống như những đợt thủy triều lên hoặc xuống. Có thể so sánh thị trường lên lạnh lẽo (Bull Market) với thủy triều lên. Thủy triều dâng nước lên bờ biển ngày càng xa vào sâu trong bờ và đến đỉnh của thủy triều thì lại quay ngược trở về hồ. Khi thủy triều rút lại được so sánh với thị trường xuống giá (Bear Market). Và cho dù trong lúc thủy triều lên hay xuống thì luôn có những con sóng đập vào bờ rồi lại lùi lại về hồ. Khi thủy triều lên mỗi con sóng liên tiếp nhau vào bờ, sóng sau vào sâu hơn sóng trước lại góp phần làm thuỷ triều vào xa hơn trong bờ, nhưng khi thủy triều xuống mỗi con sóng không mang nước ra xa bờ mà nước giảm xuống là do sóng sau vào đến bờ ở mức thấp hơn (tụt lại hơn) so với đỉnh của sóng trước, mỗi con sóng do đó sẽ trả lại dần dần bờ hồ như trước khi thủy triều lên. Những con sóng này là các xu thế trung gian, có thể cấp1 hoặc cấp 2 tùy thuộc hướng chuyển động của nó so với hướng của thủy triều vào thời điểm xảy ra xu thế đó.

Mặt hồ cũng luôn luôn bất định với những gợn sóng gồ ghề chuyển động cùng chiều, ngược chiều hoặc chuyển động ngang so với hướng của những con sóng lớn - những gợn sóng này biểu hiện cho các xu thế bé dại (những dao động hàng ngày có vai trò không cần thiết như đã nói ở phần trên). Những đợt thủy triều, những con sóng và những gợn sóng nhỏ dại chính là những hình ảnh so sánh giống nhất đối với những biến giá của một thị trường. Trong những phần sau ta sẽ còn lưu ý đến một lý thuyết khác về thị trường gọi là Lý thuyết Sóng Elliott, trong đó mọi biến động của thị trường đều gắn trực tiếp với các con sóng.

6. Bull Market (thị trường con bò tót - thị trường tăng giá)

Một xu thế tăng giá cơ bản xoàng xĩnh bao gồm 3 thời kì.

Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”, trong quá trình này, những nhà đầu tư có góc nhìn xa sẽ tiến hành để ý các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy trình độ doanh ngiệp có thể chuyển biến tình sinh ra tăng trưởng nhanh lẹ, có thể giá buốt cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và sợ hãi về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần lạnh chào bán của họ khi thị trường xuất hiện sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các bạn dạng công bố tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí rất tồi. Công chúng hoàn toàn cảm thấy thuyệt vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy lượng tiền đã đầu tư của họ đang giảm rét mướt trị nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, vì vậy mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những cô động trên thị trường đã có những biến chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, mở màn hiện ra những đợt tăng rét bé dại.

Thời kỳ thứ 2 là thời kỳ của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường. Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà e doanh chứng khoán theo trường phái Phân tích kỹ thuật.

cuối cùng là thời kì thứ 3, trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng cô động của thị trường. Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề oi bức được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày. Đến thời điểm sau khoảng hai năm tính từ lúc thị trường bắt đầu đi lên, những người ít sợ nghiệm có thể thế hệ cho rằng thị trường lúc này mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn nhập cuộc vào thị trường. Nhưng thực sự thì sau hai năm, rét mướt đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào? ” Chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào ? ” Nữa. Vào cuối thời kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn kế tiếp tăng nhưng “air-pocket-stock”* hình thành ngày càng nhiều, số lượng cổ phiếu có giá buốt thấp nhưng không có rét mướt trị đầu tư cũng ngày càng tăng và cả những đợt sản xuất trái phiếu cũng ít dần đi.

(* Air-pocket-stock là những cổ phiếu đột ngột giám giá mạnh một cách bất tầm thường - có thể là do nhà đầu tư bán ồ ạt do một tin đồn xấu. Lý do dùng quan niệm này là vì nó được so sánh với việc phi cơ bỗng ngột mất độ cao, ngoài năng lực kiểm soát khi gặp air-poket là những dòng khí hướng xuống, tác động làm mất chiều cao máy bay)

7. Bear Market (Thị trường con gấu - thị trường giảm giá)

Xu thế giảm rét mướt của thị trường cũng được phân thành ba thời kỳ.

Thời kỳ trước tiên là thời kỳ “phân bổ” (thời kỳ này thực sự khai mạc ở giai đoạn cuối của Bull Market trước đó). Trong thời kỳ này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu (và các chỉ số ngại doanh nói chung) của những công ty mà họ đang bắt giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không phổ biến và họ muốn mau lẹ thoát khỏi vị thế sở hữu cổ phiếu của những công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng mở màn có dấu hiệu lúng túng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.

Thời kỳ thứ hai được gọi là thời kỳ "hỗn loạn". Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán mở màn trở lên nhanh nhảu bán đi những cổ phiếu mình đang cầm giữ. Xu thế giảm giá buốt bắt đầu tăng nhanh làm đồ thị lạnh lẽo gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm. Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm xoàng xĩnh xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục (một dạng xu thế cấp hai) hoặc một giai đoạn dao động ngang của đồ thị thị trường (các dao động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là dao động trong một khoảng cố định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Giai đoạn này biểu hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư, họ cũng chính là những người đã cố gắng cầm giữ cổ phiếu qua thời kỳ hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kỳ đó bởi vì lúc đó giá buốt của cổ phiếu rõ là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Hoàn thành giai đoạn này mới bước vào thời kỳ thứ ba.

Vào thời kỳ thứ ba, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu đuối dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự thấp thỏm của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn lạnh lẽo trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người chiếm hữu chúng đều muốn bắt giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của Bear Market, như một kết quả của toàn bộ thời kỳ giảm rét trước, cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Bear Market xong xuôi tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã biểu lộ ra và có thể đến

8. Hai đường chỉ số bình quân của thị trường phải cùng xác nhận xu thế của thị trường.

Đây là câu hỏi xoàng xuyên đặt ra nhất và cũng khó giảng nghĩa nhất đối với hệ thống các qui định của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng mực và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai đã xem xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với qui định này. Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua cách thức này thì trong thực tế sợ hãi doanh đã và sẽ phải nhiều lần cảm thấy tiếc nuối. Điều phương pháp này muốn nói đến là không thể có một dấu hiệu đúng đắn nào về sự đổi mới xu thế thị trường có thể được khẳng định chỉ thông qua chú ý bất định của duy nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói đến những thị trường bao gồm nhiều chỉ số bình quân, chẳng hạn như ở Mỹ, như nói ở phần đầu, có hai loại chỉ số bình quân).

  • Chỉ số bình quân bên dưới chỉ ra thị trường đi xuống
  • Chỉ số bình quân phía trên chỉ ra thị trường đi lên

Như vậy thị trường sẽ vẫn đi xuống do cả hai không cùng xác nhận một sự đảo chiều trong xu thế hiện tại của thị trường.

Chỉ khi nào cả chỉ số bình quân cũng chỉ ra là thị trường đang có xu thế đi lên thì ta mới có cơ sở xác nhận một dấu hiệu về sự đổi chiều của xu thế chính. Trong hình vẽ trên, trừ khi có một biến động nào khác nếu không chỉ duy nhất chỉ số bình quân bên dưới sẽ không để chuyển hướng thông thường của thị trường mà thậm chí còn bị kéo xuống. Xu thế cấp 1 của thị trường rõ rệt vẫn chưa rõ ràng. Đây là một ví dụ áp dụng lý lẽ về sự xác nhận. Không quan trọng cả hai chỉ số bình quân phải cùng xác nhận vào 1 ngày. Thường thì cả hai chỉ số này sẽ cùng chuyển động đến cùng một khoảng đỉnh hoặc đáy mới, nhưng có nhiều trường hợp mà một trong hai chỉ số sẽ trễ hơn chỉ số kia vài ngày, vài tuần, thậm chí là một đến hai tháng. Trong những tình huống như vậy thì nhà đầu tư phải giữ kiên nhẫn và đợi cho đến khi thị trường thật sự biểu thị ra thực chất xu hướng của nó.

9. Khối lượng giao dịch áp dụng kèm với xu thế thị trường.

Điều này biểu thị một thực tế là khi rét mướt bất định theo đúng xu thế cấp 1 thì các họat động hoảng sợ doanh trên có xu hướng mở bát ngát hơn. Do vậy, với Bull Market, khối lượng giao dịch sẽ tăng nếu lạnh tăng, và sẽ thu lại nếu giá giảm; với Bear Market giá trị giao dịch sẽ tăng nếu rét giảm và ít khi lạnh có dấu hiệu bình phục. Điều này vẫn đúng ở mức độ thấp hơn tức là với những xu thế cấp 2, khác lạ là trong giai đoạn đầu của một xu thế bình phục cấp 2 trong một Bear Market, khi mà các diễn biến của thị trường chỉ ra rằng lạnh lẽo sé tăng lên theo một số đợt tăng lạnh lẽo nhỏ dại, còn các cô động kéo giá buốt xuống giảm đi.

Các kết luận ở đây thường không có rét mướt trị nếu chỉ dựa trên cốt truyện trong vài ngày và càng không có lạnh trị với những kết luận dựa trên một phiên giao dịch đơn độc. Cách thức này chỉ phát huy hiệu quả nếu dựa trên những tình tiết của khối lượng giao dịch thông thường trong thời gian giao dịch tương đối dài. Hơn nữa, theo Lý thuyết Dow thì chỉ dựa trên những phân tích về lạnh lẽo mới có thể đưa ra được những dấu hiệu mang tính quyết định về xu thế thị trường, còn khối lượng giao dịch chỉ có thể cung cấp thêm những chứng cứ phụ để giải thích rõ hơn biến động của thị trường và sử dụng vào những tình huống khi dấu hiệu chính tỏ ra còn nhiều nghi vấn.

10. Đường ngang có thể thay thế cho các xu thế cấp 2.

Đường ngang theo định nghĩa của Lý thuyết Dow là những chuyển động ngang có tính chất trung gian của thị trường phản ánh thời kỳ mà giá biến động rất ít (với thị trường Mĩ là bé dại hơn hoặc bằng 5%). Đường ngang xoàng kéo dài từ 2 đến 3 tuần hoặc thỉnh thoảng là lâu hơn (trong vài tháng). Khi thị trường sinh ra mô hình dạng đường ngang, điều này chỉ ra rằng áp lực của cung và cầu trên thị trường là tương đối cân bằng.

Thực tế trong giai đoạn này các lệnh đặt mua hoặc bán đều biểu thị một sự kiệt sức. Những người muốn mua cổ phiếu thì phải tăng mức giá chào mua để khuyến khích người có cổ phiếu mà họ muốn bán cho họ, còn những người muốn bán thì với thị trường có cô động dạng đường ngang họ thấy rằng số lượng người mua đang ít dần và thành tựu là họ phải giảm rét mướt để có thể bán được những cổ phiếu của mình. Do vậy một mức giá buốt dao động vượt ra ngoài mức dao động của mô hình đường ngang đang xuất hiện trên thị trường sẽ là một dấu hiệu rõ ràng cho một thị trường lên hoặc xuống lạnh lẽo tùy thuộc vào hướng của dao động vượt ra ngoài. Nhìn chung mô hình đường ngang càng kéo lâu dài và biên độ dao động càng bé dại thì ý nghĩa của dao động vượt ra ngoài mô hình đường ngang càng lớn.

Mô hình đường ngang kém cỏi diễn ra dài hoàn toản để khoảng thời gian tồn tại của nó mang một ý nghĩa cần thiết đối với những người phân tích thị trường theo trường phái Dow. Những biến động vượt ra ngoài mô hình đường ngang có thể là dấu hiệu cho thấy mô hình này chính là những mức đỉnh hoặc đáy rất cần thiết của thị trường bởi nếu là đỉnh thì đó chính là giai đoạn “phân bổ” - giai đoạn lúc đầu của một Bear Market; còn nếu dấu hiệu cho thấy nó có thể là mức đáy của thị trường thì đây là giai đoạn “tích tụ” - giai đoạn đầu của một Bull Market. Thông thường nhất, nó nhập vai trò như một thời kỳ yên ổn thuộc giai đoạn sau cuối trong quá trình sinh ra hoặc thuộc giai đoạn củng cố xu thế cấp 1 của thị trường. Trong những trường hợp đó mô hình này vào vai trò như những sóng cấp 2. Mức cô động 5% cũng hoàn toàn chỉ là một mức biên độ được xác định theo kinh hoảng nghiệm bởi trên thực tế rằng mô hình đường ngang có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình cũng có nhiều bất định ngang với biên độ lớn hơn nhưng hai biên của nó vẫn được xác định khá rõ và tương đối chuẩn nên cũng được tính là một loại mô hình đường ngang.

11. Chỉ sử dụng mức giá buốt đóng cửa để nghiên cứu vãn.

Lý thuyết Dowkhông đon đả và ít đề cao đến các mức biến động giá (thậm chí là cả mức giá cao nhất và thấp nhất) trong ngày mà chỉ vồ cập đến những số liệu cuối ngày giao dịch, chẳng hạn như mức bình quân giá bán cuối cung trong ngày.

chú ý một thị trường với xu thế cơ bản là tăng giá buốt và đang ở thời điểm lạnh lẽo tăng và đạt mức đỉnh của ngày hôm đó vào 11 giờ sáng, giả sử lúc đó chỉ số bình quân đang là 152.45 sau đó lại giảm xuống mức lạnh đóng cửa là 150.70. Để có thể xác nhận thị trường vẫn đang trong xu thế căn bản là tăng rét mướt thì ở đợt tăng lạnh tiếp theo mức lạnh lẽo đóng cửa phải cao hơn 150.70. Trong trường hợp này mức đỉnh 152.45 không được đon đả đến. Trái lại nếu ở đợt thứ 2, dù giá buốt có đạt đến mức đỉnh ở 152.60 nhưng lạnh đóng cửa lại nhỏ dại hơn 150.70 thì hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ liệu xu thế tăng giá buốt hiện tại có còn nối tiếp hay không.

Trong những bắt gần đây, nhiều ý kiến đã được đưa ra xung quanh vấn đề liệu chỉ số rét bình quân phải gia tăng hay giảm đi bao nhiêu so với giới hạn đạt được của đợt dao động lạnh lẽo trước (đỉnh hoặc đáy) để có thể báo hiệu (xác nhận một xu thế mới hoặc xác nhận lại xu thế hiện tại) xu thế thị trường. Dow và Hamilton luôn rất chú ý trong việc xem xét bất kỳ một dao động nhỏ tuổi nào xen vào xu thế hiện tại làm giá buốt thay đổi thậm chí đến 0. 01 Và hai ông đều cho rằng dấu hiệu đó hoàn toàn có thể là một dấu hiệt đúng. Nhưng ngày nay nhiều nhà phân tích cho rằng mức thay đổi đó phải đạt ít nhất 1.00 thế hệ có thể được coi là một dấu hiệu của thị trường.

12. Một xu thế cần được giả định rằng vẫn đang nối tiếp cho đến khi có một dấu hiệu thực sự về sự đảo chiều của xu thế đó được xác định.

nguyên tắc này là một trong những phương pháp có nhiều ý kiến tranh cãi nhất. Nhưng khi được hiểu chính xác nó vẫn có lạnh trị rất lớn trong phân tích thị trường. Nguyên lý thứ mười hai giúp đề phòng với những thay đổi (phản ứng) quá sớm trong khái niệm về thị trường, theo như chúng ta hay nói là “cầm đèn chạy trước ô tô”, của bất kì nhà đầu tư nào. Điều này không nhằm làm nhà đầu tư trì hoãn hành động của mình lại một cách không quan trọng, cho dù là chỉ một phút, khi những dấu hiệu về sự đổi mới của xu thế thị trường là đã rõ, nhưng nó nhắc nhở một điều rằng lợi thế sẽ nghiêng về phía những người biết hy vọng cho đến khi họ chắc chắn về tình hình thị trường và rõ rệt sẽ không nghiêng về những người quá vội vàng với hành động của họ. Khả năng xảy không thể được phát hiện một cách rõ rệt bởi thực chất của nó là những bất định thực tế của thị trường và chúng thay đổi xoàng xuyên. Bull Market không thể lên rét mãi và Bear Market thì sớm muộn cũng đạt đến đáy của nó. Khi một xu thế cấp 1 của thị trường vừa thế hệ được xuất hiện thì cho dù có những dao động trong ngắn hạn ta vẫn có thể chắc chắn rằng nó không thay đổi, nhưng nếu nó kéo dài càng lâu thì mức chắc chắn càng ít dần đi, các điểm tái xác nhận xu thế thị trường cũng có giá trị ít dần đi. Động lực của người mua và năng lực bán được những cổ phiếu với giá cao hơn rét mướt mua để kiếm lời sẽ ngày càng thấp nếu như Bull Market đã tồn tại trong nhiều tháng và rõ rệt là thấp hơn khi nó thế hệ hình thành.

Một hệ quả tất yếu hèn từ nguyên lý này đó là khi đã có những dấu hiệu về sự đổi mới của xu thế thị trường thì sự đổi mới đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vì vậy bất cứ nhà đầu tư nào cũng cần phải theo dõi thị trường một cách tầm thường xuyên.

Nếu thấy có lợi hoặc chúng tôi đã mang đến sự hài lòng cho các bác hãy like, share và sub cho chúng tôi. Xin cảm ơn các bác!

Dịch vụ chứng khoán :

+ phần mềm chứng khoán : https://goo.gl/utUfxY

+ Khóa học chứng khoán : https://goo.gl/MNj4mQ

+ Mở tài khoản chứng khoán không tính tiền : https://goo.gl/7ra7b9

+ Hotline : O372.O95.129

+ Youtube : https://goo.gl/8x9LxQ

+ Facebook : https://goo.gl/Uc5JJh

+ Room zalo chia sẻ kiến thức của chứng khoán là gì : https://goo.gl/w96dFh

+ Room zalo support khách hàng : https://goo.gl/QvGMVD

+ Room facebook support khách hàng : https://goo.gl/mVmbuB

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét